Người Xưa Dùng Kinh Dịch Dự Đoán Vận Mệnh Vô Cùng Chính Xác P2

4. Kinh Dịch tại sao lại chia ra Tiên thiên bát quái và Hậu thiên bát quái?

Tiên thiên bát quái cũng gọi là Phục Hy bát quái, là lấy chữ số xếp thứ tự vận hành là Càn nhất, đoài nhị, ly tam, chấn tứ, tốn ngũ, khảm lục, cấn thất, khôn bát, đây chính là tiên thiên bát quái số.

Hậu thiên bát quái tương truyền do Chu Văn Vương chế tác, còn gọi là Văn Vương bát quái. Thứ tự sắp xếp của nó là: Khảm nhất, khôn nhị, chấn tam, tốn tứ, trung (ở giữa) ngũ, càn lục, đoài thất, cấn bát, ly cửu.

Tình trạng vạn sự vạn vật trên thế giới trước khi hình thành gọi là tiên thiên, có vạn sự vạn vật rồi, tức là hậu thiên. Nói cách khác, con người trong bụng mẹ là tiên thiên, sau khi dời khỏi bụng mẹ là hậu thiên, tiên thiên hậu thiên là cách nói phân chia phạm vi, giai đoạn.

Theo thư tự của tiên thiên bát quái, chúng ta có thể biết, con người khi trong bụng mẹ, đầu tiên bắt đầu sinh ra đầu, vì càn là nhất, tiếp đến sinh ra phổi, vì đoài là nhị, tiếp đến sinh ra tim, vì ly là tam, tiếp đến sinh ra gan mật, vì chấn là tứ, tốn là 5, tiếp theo là sinh ra thận, vì khảm là lục, kế tiếp là sinh ra ruột, dạ dày, vì cấn là thất, tiếp theo là sinh ra thịt, vì khôn là bát.

Tiên thiên bát quái là nói về trạng thái khi vũ trụ hình thành, hậu thiên bát quái là nói về biến hóa trong nội bộ vũ trụ và phép tắc vận dụng. Hiện nay sử dụng hậu thiên bát quái chiếm đa số.

5. Cách đọc những chữ khó trong Kinh Dịch như thế nào?

Những chữ khó đọc trong Kinh Dịch có mấy chữ sau: Hào, đoài, quái, thoán, trinh, phệ

Hào (爻:yáo): đường ngang dài ngắn tổ hợp thành mỗi quẻ trong bát quái: Hào tượng
Đoài (兌:dùi): quẻ đoài: vui vẻ, niềm vui lan tỏa tới người xung quanh.
Quái (夬: guài): quẻ quái, nghĩa là quyết
Thoán (彖: tuàn): quẻ thoán, nghĩa là “lợn chạy thoát”.
Trinh (貞: zheng): quê trinh, nghĩa là may mắn tốt lành.
Phệ (筮:shì): quẻ phệ. Xem hung cát, như phệ ngắn quy dài.

Xem thêm: Lá số Tử Vi trọn đời

6. Kinh Dịch có tác dụng gì?

Kinh Dịch là bảo điển giải khai mật mã vũ trụ, hạnh phúc nhân sinh.

Kinh Dịch là triết lý và kinh nghiệm hàng ngàn năm của văn minh Á Đông, nó bao la vạn tượng, phạm vi liên quan đến rất rộng, hầu như tất cả tri thức đều bao gồm trong đó, là bộ bách khoa toàn thư. Nó trao cho nhân loại 3 chiếc chìa khóa vàng.

Chìa khóa vàng thứ 1 là “âm dương”, bất kỳ sự việc nào trên thế giới, cân bằng âm dương đạt được hài hòa, hài hòa thì có thể phát triển, tiến bộ.

Chìa khóa vàng thứ 2 là “ngũ hành”, vạn sự vạn vật đều không rời xa cái bóng của ngũ hành, mệnh lý học và vị lý học của phong thủy đều từ nó mà sinh ra.

Chìa khóa vàng thứ 3 là “bát quái”, bát quái phát triển thành “Văn Vương 64 quẻ”. Nó cho chúng ta biết 64 mật mã của vũ trụ, đại thiên thế giới cũng không ngoài mật mã này.

Xem thêm: Chấm Tử Vi ở đâu hay

7.Tại sao dùng Kinh Dịch dự đoán vô cùng chính xác?

Bởi vì dự đoán Kinh Dịch là khoa học, chứa đầy đại trí tuệ của nhân loại mà đến nay vẫn chưa khám phá hết. Thuật số Kinh Dịch là chi phái nội dung trọng yếu của ngũ thuật của Đạo giáo cổ đại. Thuật, là chỉ phương thức, phương pháp. Số, là chỉ lý số, khí số.

Sở dĩ nói dùng Kinh Dịch dự đoán là khoa học, như trên đã nói, bản thân bát quái biểu thị cho trạng thái của một đoạn thời gian, 64 quẻ đương nhiên cũng như vậy. Trạng thái thời gian đó là quá khứ, hiện tại, tương lai. Cũng có nghĩa là, bất cứ quẻ nào trong Kinh Dịch đối với phán đoán sự vật đều hàm chứa đoán định trạng thái của tương lai đối với sự việc đó.

Đường thẳng thấp nhất trong bát quái là biểu thị trạng thái tương lai này, đồng thời cũng chứa đựng đoán định trạng thái quá khứ của sự việc, đường thẳng phía trên cao nhất của bát quái là biểu đạt trạng thái quá khứ của sự việc. Do đó ý nghĩa của 1 quẻ bao hàm suy đoán đối với quá khứ và đoán định đối với tương lai. Do vậy, người hiểu Kinh Dịch có thể biết được 500 năm trước và 500 năm sau. Tính khoa học cũng là ở đó.

Có người nói, một quẻ (quái tướng) là hiện nay rút ra, đã bao hàm quá khứ, hiện tại và tương lai, cũng rất ngắn, dường như gắn liền với trạng thái hiện tại, làm sao biết được quá khứ, tương lai trong thời gian dài như vậy được? 3 đường tròng bát quái lần lượt biểu thị 3 khái niệm thời gian, nhưng đơn vị thời gian trong mỗi khái niệm thời gian thì không có quy định. Người dùng Kinh Dịch có thể căn cứ tình hình thực tế, căn cứ yêu cầu biểu đạt mà xác định một đơn vị thời gian, có thể lấy một đường đại diện cho 1 giờ, cũng có thể đại diện cho 1 năm.

Lấy ví dụ: quẻ cấn, đại diện cho núi, đường trên cùng biểu thị sự biến động vỏ trái đất từ niên đại xa xưa, đường ở giữa biểu thị dung nham đóng rắn thành thân núi, đường ở dưới biểu thị một niên đại nào đó trong quá khứ, thân núi vẫn còn đóng rắn bất động, do đó chỏ có bảo trì thời gian dài trạng thái nói trên mới có thể gọi là núi. Vừa vặn đã biểu thị rõ ràng trạng thái vật lý và trạng thái thời gian của núi. Dùng quẻ cấn là núi để toán quái thì đương nhiên có thể biết 500 năm trước và 500 năm sau, nhưng khi chúng ta lấy quẻ thì không đến 1 giây, mà chúng ta rút ra kết luận mấy của nghìn năm.

Bát quái rút tượng đều rất lớn, đều cố định, do đó về mặt thời gian đều rất đảm bảo. Ba đường bát quái biểu thị sự vật như thế này, quẻ 6 đường cũng như vậy, chỉ là nó là 2 quẻ 3 đường tổ hợp thành, biểu thị tư tượng sự việc gặp nhau biến động lẫn nhau.

Xem thêm: Dịch vụ xem ngày tốt